Việt Nam vào ngày 15 tháng 3 đã mở cửa trở lại hoàn toàn cho du lịch quốc tế sau gần hai năm. Tuy nhiên, khi đến ngày, có sự nhầm lẫn vì các thủ tục nhập cảnh, yêu cầu thị thực,… không được các cơ quan chính phủ liên quan công bố.
Tuy nhiên, nhiều thông tin chi tiết sau đó đã được công bố.
Kể từ ngày 15 tháng 5, Việt Nam đã bãi bỏ tất cả các yêu cầu kiểm tra COVID-19 đối với khách quốc tế theo Công văn số 416 / CD-TTg sau khi số trường hợp giảm đáng kể.
Sự phát triển này phù hợp với chiến lược mở cửa và phục hồi nền kinh tế của Việt Nam. Nó cũng phù hợp với việc một số quốc gia mở cửa biên giới để thúc đẩy thị trường và GDP của họ.
Việc ngừng thử nghiệm là một sự cứu trợ đáng hoan nghênh cho khách du lịch, khách doanh nhân và các hãng hàng không đang tìm cách phục hồi sau nhiều năm thua lỗ.
Gần đây nhất, Việt Nam đã đình chỉ việc khai báo y tế đối với tất cả các du khách từ ngày 27 tháng 4. Tuy nhiên, khách du lịch vào Việt Nam cũng nên có bảo hiểm y tế hoặc bảo hiểm du lịch bao gồm điều trị COVID-19 với mức trách nhiệm tối thiểu là US $ 10.000.
Du khách cũng được yêu cầu tuân theo tất cả các quy trình của đại dịch như đeo khẩu trang và khử trùng tay.
Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng đã yêu cầu các cơ quan liên quan của Chính phủ khôi phục các thủ tục xuất nhập cảnh và thị thực như trước khi xảy ra đại dịch. Điều này cũng có nghĩa là công dân từ 80 quốc gia hiện có thể nộp đơn xin thị thực điện tử với thời gian lưu trú lên đến 30 ngày. Trang web cấp thị thực điện tử của chính phủ đang mở để nộp hồ sơ xin thị thực. Chính phủ cũng nhắc lại lập trường của mình là đối xử như nhau với khách du lịch trong và ngoài nước.
Ngoài ra, thị thực công tác dành cho khách doanh nhân cũng đã được cấp lại mà không cần sự chấp thuận trước của ủy ban nhân dân địa phương.
Trước đó, chính phủ đã ban hành miễn thị thực cho công dân của 13 quốc gia bao gồm Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Anh, Đan Mạch, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Na Uy, Phần Lan, Belarus và Thụy Điển.
Tin tức đang được chào đón đặc biệt đối với các công ty lữ hành đã bị thiệt hại đáng kể. Việt Nam đã đón hơn 18 triệu lượt khách vào năm 2019 so với chỉ 157.000 lượt khách nước ngoài vào năm 2021 do đóng cửa biên giới.
Việt Nam cũng đã nối lại các chuyến bay thẳng đến một số điểm đến như Mỹ, Singapore, Thái Lan, Anh và Úc, điều này sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế và giao lưu nhân dân. Việc nới lỏng thủ tục nhập cảnh và thị thực sẽ cho phép các doanh nghiệp và công ty du lịch lên kế hoạch cho các chuyến đi và sẽ đóng góp hơn nữa vào nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam.
Cái gì mở và cái gì không
Hầu hết tất cả các hoạt động kinh doanh đã được phép mở lại với các biện pháp ngăn chặn đại dịch. Chúng bao gồm văn phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, tiệm cắt tóc, bảo tàng, tiệc cưới, siêu thị, cửa hàng tiện lợi, nhà hàng, phương tiện giao thông công cộng (taxi, đi xe và xe buýt) và các chuyến bay. Các doanh nghiệp không được phép mở lại bao gồm quán bar, spa, karaoke và tiệm mát-xa, rạp chiếu phim, câu lạc bộ đêm và ăn uống trực tiếp mặc dù các cơ sở này có thể khác nhau ở các vùng khác nhau.
Các biện pháp phòng chống đại dịch
Trong khi có một số khác biệt trên khắp đất nước, hầu hết các doanh nghiệp yêu cầu nhân viên phải tiêm ít nhất một liều vắc-xin COVID-19 mới được trở lại văn phòng. Các doanh nghiệp cũng được yêu cầu kiểm tra nhân viên của họ bảy ngày một lần. Người dân TP HCM được yêu cầu sử dụng ứng dụng di động VNEID và Y te HCM để khai báo tình hình sức khỏe và điểm đến trước khi ra ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải đảm bảo điều kiện tránh xa xã hội, chất khử trùng tay và vệ sinh tại nơi làm việc trong khi nhân viên phải đeo khẩu trang, giữ khoảng cách và đảm bảo các biện pháp phòng chống đại dịch tại mọi thời điểm.
Những thách thức kinh doanh sau làn sóng thứ tư
Làn sóng thứ tư của Việt Nam đã và đang tàn bạo đối với các doanh nghiệp cũng như người dân. Không chỉ các doanh nghiệp lớn mà một số doanh nghiệp vừa và nhỏ và cá nhân đã bị giảm thu nhập do người dân phải ở nhà và chỉ được phép ra ngoài trong trường hợp khẩn cấp.
Đóng cửa nhà máy và gián đoạn chuỗi cung ứng
Để tiếp tục hoạt động, hầu hết các nhà máy và nhà sản xuất được yêu cầu thực hiện chính sách 'ba tại chỗ' có nghĩa là người lao động ăn, ngủ và làm việc tại chỗ, hoặc chính sách một tuyến hai điểm đến, nơi công nhân được đưa đón từ nơi cư trú của họ hoặc ký túc xá bằng xe của công ty đến công trình. Các doanh nghiệp nhận thấy quá trình này khó thực hiện với thông báo ngắn như vậy vì họ phải thu xếp sinh hoạt tại chỗ. Điều này cũng làm tăng chi phí. Bên cạnh đó, ngay cả với chính sách này, nhiều công nhân đã bị nhiễm bệnh, buộc các doanh nghiệp phải tạm dừng sản xuất.
Do việc đóng cửa nhà máy như vậy, công ty may mặc Everlane cho biết họ phải đối mặt với sự chậm trễ từ 4 đến 8 tuần. Nike cắt giảm dự báo với lý do 10 tuần sản xuất bị mất ở Việt Nam. Điều này xảy ra khi các thị trường phương Tây như Mỹ và châu Âu phải đối mặt với nhu cầu về sản phẩm tăng lên trong kỳ nghỉ lễ bận rộn. Các nhà sản xuất theo hợp đồng tại Việt Nam sản xuất 51% tổng sản phẩm thương hiệu Nike vào năm 2020. Việc hạn chế hơn nữa việc vận chuyển hàng hóa và kiểm tra nghiêm ngặt đối với tài xế xe tải và nhân viên càng làm tăng thêm tình trạng hàng hóa bị kẹt tại các cảng, nhà máy và nhà kho.
Điều này đã làm nổi bật thêm các vấn đề về chuỗi cung ứng và sự chậm trễ tiềm ẩn. Có thể mất thêm năm đến sáu tháng để tiếp tục sản xuất đầy đủ. Ngay cả Apple cũng tuyên bố rằng thời gian giao hàng của những chiếc iPhone mới của họ có thể do việc đóng cửa nhà máy ở Việt Nam.
Các nhà sản xuất suy nghĩ lại về sản xuất, đa dạng hóa
Việt Nam được hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung khi một số doanh nghiệp chuyển địa điểm hoặc đa dạng hóa hoạt động sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đợt khóa mới nhất đã khiến một số doanh nghiệp chuyển hướng rời khỏi Việt Nam. Gần đây nhất, theo Nikkei Asia, Apple đã tạm dừng việc sản xuất một số MacBook và iPad do các vấn đề về chuỗi cung ứng. Ngoài ra, hãng đã bắt đầu sản xuất AirPods 3 ở Trung Quốc chứ không phải Việt Nam. Theo khảo sát của AmCham vào tháng 8, 20% doanh nghiệp Mỹ đã chuyển một số hoạt động sản xuất ra khỏi Việt Nam, trong khi Eurocham cho biết khoảng 18% thành viên cũng chuyển hoạt động sản xuất. Để vượt qua khủng hoảng, một số doanh nghiệp đã cắt giảm đơn hàng do hạn chế về năng lực và lượng hàng tồn đọng.